image banner
Nhận diện, phòng và điều trị bệnh phân trắng trên tôm nuôi

Bệnh phân trắng trên tôm hay con gọi là bệnh “Phân trắng, teo gan” theo dấu hiệu bệnh lý là: hiện tượng phân tôm có màu trắng nổi trên mặt nước và gan tôm bị teo hoặc nhũn rửa ,bệnh phổ biến trong những năm gần đây và diễn ra quanh năm. Mặc dù bệnh phân trắng không gây tôm chết hàng loạt, nhưng sẽ làm tôm chậm lớn còi cọc, tôm bị bệnh mãn tính khó điều trị. Khi bệnh phân trắng xảy ra, hầu hêt người nuôi đều chọn giải pháp thu hoạch sớm, gây thiệt hại lớn về kinh tế. Do đó, việc xác định nguyên nhân, các biện pháp phòng và trị bệnh phân trắng trên tôm nuôi có ý nghĩa rất quan trọng.

Nguyên nhân gây bệnh

- Nhóm Vibrio

- Nhóm độc tố gây tổn thương hệ thống gan tụy và đường ruột gồm:

+ Độc tố bởi các loại khí độc: NH3, H2S

+ Độc tố bởi nhiễm độc tố (Aflatoxin) từ thức ăn: Thức ăn trong mùa mưa, điều kiện bảo quản không tốt khiến độ ẩm cao và sản sinh ra các loại nấm mốc tiết độc tố

+ Độc tố bởi Tảo đỏ có roi tiết ra độc tố làm phá huỷ bộ phận gan tụy và đường ruột

+ Microsporidian Enterocytozoon hepatopenaei (EHP)

+ Các cấu trúc của nhóm tảo Silica diatom: Do có lớp vỏ cứng sắc nhọn khi chết khiến hệ tiêu hóa bị tổn thương

+ Tảo lam dạng sợi làm tróc lớp biểu mô trên đường ruột tôm (nước màu xanh lục đậm).

+ Ký sinh trùng (Gregarine)

Có thể một trong các nhân tố trên gây tổn thương hệ thống gan tụy trước, sau đó các tác nhân khác tấn công tiếp theo khiến tôm nhiễm bệnh.

Cơ chế gây bệnh

Các tác nhân gây bệnh tấn công hệ thống gan tụy và đường ruột làm tổn thương và làm giảm chức năng hoạt động của các cơ quan này dẫn đến tôm không hấp thụ được thức ăn, kèm theo đó lại bị tấn công bởi các tác nhân cơ hội khác khiến tôm chết. Quan sát hệ thống gan tụy trên tôm bệnh thấy, các tế bào epithelial trong ống gan tụy bị bong tróc, sau đó tập trung lại tại phần nối giữa gan tụy, dạ dày và ruột giữa trước khi bị đẩy ra ngoài. Phân tích phân tôm thấy, thành phần chủ yếu là lipid, một số cấu trúc của hệ thống gan tụy và đường ruột và thường thấy có cả ấu trùng cũng như xác của Vermiform, một loại ký sinh trùng được xác là một trong những tác nhân gây ra bệnh phân trắng (được cho là nhìn giống một loài Gregarines) (Sriurairatana S, et al. 2014). Ngoài ra, có sự hiện diện nồng độ cao các nhóm vi khuẩn trong hệ thống gan tụy, đường ruột và phân tôm thuộc các nhóm Vibrio parahaemolyticus, Vibrio fluvialis, Vibrio alginolyticus,  Vibrio mimicus, Vibrio vulnificus, Vibrio cholera và Vibrio damselae (Limsuwan, 2010). Năm  2010, một báo cáo từ nghiên cứu nguyên nhân bệnh phân trắng của nhóm Ha và cộng sự  phát hiện vi bào tử trùng Microsporidian Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) là tác nhân gây lên bệnh phân trắng.

Triệu chứng của ao tôm bị bệnh phân trắng

- Dễ thấy nhất của bệnh là có những đoạn phân có màu trắng đục nổi trên mặt nước ở gốc cuối gió từng đoạn từ 0.3 - 1cm, có khi còn dính ở hậu môn tôm

- Tôm giảm ăn, màu sắc chuyển sang màu sậm hơn

- Gan tụy chuyển màu nhợt, mềm nhũn; ruột và phân chuyển sang màu vàng hoặc trắng

- Tôm mềm vỏ

- Mang chuyển sang màu tối

- Xuất hiện các sợi phân trắng hoặc vàng nâu tại nhá hoặc nổi trên mặt ao và dồn vào góc ao hoặc cuối hướng gió.

Có 03 giai đoạn của bệnh phân trắng:

- Giai đoạn 1: chưa xuất hiện các triệu chứng lâm sàng  của bệnh phân trắng.

- Giai đoạn 2: xuất hiện các triệu chứng lâm sàng trên tôm như: ruột lỏng, màu ruột mất, gan chuyển màu lợt, mềm nhũn, phân đứt khúc nhiều, đi phân sống màu nhợt nhạt,  có nhớt hoặc chất béo trong phân.

- Giai đoạn 3: phân trắng xuất hiện trong ao.


                Đường ruột tôm lỏng, phân đứt khúc                Gan tôm xấu, đổi màu

Nhận diện các mối nguy

Xác định thời điểm và đặc điểm bệnh phân trắng dễ bùng phát nhất để dự báo trước khi các triệu chứng lâm sàng xuất hiện:

- Giai đoạn giao mùa mưa nắng; nắng nóng hay mưa kéo dài; ngày rất nóng, oi bức, đêm mát mẻ hơn nhiều (chênh lệch từ 8 – 100C).

- Yếu tố về môi trường như nước trong ao nuôi: nước đổi màu đột ngột theo hướng xấu (đục, quá xanh, nước lợn cợn nhiều, keo đặc…); tảo tàn hoặc quá dày; sức khỏe tôm kém (như kém linh hoạt, không búng nhảy mạnh khi thăm vó, tôm ăn nhiều nhưng không tăng trọng bình thường), vỏ tôm không chắc khỏe, trong bóng; tôm thường xuyên bị cong thân, đục cơ, cơ thịt tôm không trong)…

- Kiểm tra mẫu tôm và nước trên môi trường đĩa thạch mà xanh (TCBS): kết quả khuẩn nước cao hơn 103, và có xuất hiện khuẩn lạc xanh; khuẩn tôm cao hơn 103 và có thể có xuất hiện khuẩn xanh.

- Khí độc NH3, NOtrong môi trường nuôi tăng cao (trên 5 ppm) kéo dài lâu ngày không xử lý được.

Điều trị bệnh

Biện pháp phòng hay chữa trị bệnh cho động vật thủy sản nuôi nói chung và tôm nói riêng đều là biện pháp tổng hợp, bao gồm: xử lý tích cực và đặc biệt với môi trường nuôi, cho ăn bổ sung các sản phẩm phù hợp, kiên định phác đồ và quản lý chặt chẽ việc cho ăn, môi trường ao nuôi, tăng cường tần suất quan sát, đánh giá tôm sát sao hơn.

- Ngừng cho ăn hoàn toàn trong vòng 1 - 2 ngày.

- Chạy quạt tăng cường ôxy nhiều nhất có thể.

- Thay nước sạch đã xử lý 30-50% (Chú ý thay chậm để không làm tôm sốc)

- Tìm các giải pháp phù hợp để làm giảm nồng độ các chất hữu cơ trong ao (nếu ao thường xuyên xi phông thì dùng chất lắng tụ rồi xi phông sạch ra ngoài. Trường hợp ao không được xi phông trước đó thì chỉ dùng vi sinh, không được làm xáo trộn đáy ao khiến khí H2S khuếch tán vào nước gây chết tôm).

- Sử dụng vi sinh với liều cao gấp 3 lần so với liều bình thường xử lý nước và đáy ao.

- Trộn xen kẽ các nhóm vi sinh tiêu hóa và tỏi (10g/kg)  vào thức ăn để cho tôm ăn (không trộn tỏi cùng vi sinh vì tỏi có thể làm bất hoạt vi sinh).

- Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên trong vòng 5 ngày liên tục.

Phòng bệnh:

- Chọn tôm giống có chất lượng tốt, thả mật độ hợp lý

- Kiểm tra trùng hai tế bào trong ruột tôm giống

- Kiểm soát Vibrio trong ao bằng cách luôn duy trì nồng độ thấp các chất hữu cơ, là nguồn dinh dưỡng cho Vibrio phát triển như: Quản lý lượng thức ăn ăn đúng nhu cầu và theo nhiệt độ nước, xi phông loại bỏ chất thải, duy trì mật độ tảo, sử dụng vi sinh phân hủy các chất hữu cơ đáy ao và nước.

- Chọn thức ăn tốt, bảo quản kỹ, không để ẩm mốc. Cho ăn lượng thức ăn theo nhiệt độ nước: Khi nhiệt độ nước tăng cao > 32 độ C, tôm thường ăn nhiều hơn nhưng thời gian thức ăn đi qua hệ thống tiêu hóa rất ngắn làm tăng lượng chất thải trong ao. Nhiệt độ cao cũng làm vi khuẩn phát triển nhanh hơn. Do vậy, khi nhiệt độ nước tăng cao, không tăng lượng thức ăn theo cách kiểm tra nhá thông thường.

- Hạn chế tối đa việc sử dụng nghêu sò, ốc, hến làm thức ăn cho tôm (vì đây là ký chủ trung gian của trùng hai tế bào)

- Bổ sung đầy đủ các chất tăng cường sức khỏe của tôm như vitamin và khoáng chất thiết yếu.

- Kiểm soát tốt các loài tảo độc, độ kiềm trong ao.

- Luôn duy trì cân bằng hệ vi khuẩn có lợi trong ao bằng việc bổ sung thường xuyên vi sinh và duy trì hàm lượng ôxy lớn hơn 5 ppm./.

Tin, bài: Chi cục Chăn nuôi và Thú y

 
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement

image advertisement

 
image advertisement

image advertisement

Thống kê truy cập
  • Đang online: 0
  • Hôm nay: 1
  • Trong tháng: 0
  • Tất cả: 0